Bảng 4. Tỷ lệ đẻ, năng suất trứng và tỷ lệ trứng giống của gà Lạc Thuỷ giai đoạn 20-40 tuần tuổi (n = 3)
Qua bảng 3 cho thấy đàn gà thí nghiệm đẻ quả trứng đầu tiên ở tuần tuổi thứ 20, tỷ lệ đẻ đạt 5% (tuổi thành thục sinh dục) lúc 21 tuần tuổi (143 ngày tuổi), tỷ lệ đẻ 25% đạt lúc 24 tuần tuổi (163 ngày tuổi), đạt 50% lúc 28 tuần tuổi (192 ngày tuổi). Tỷ lệ đẻ đỉnh cao của gà thí nghiệm đạt 51,02% lúc 32 tuần tuổi (221 ngày tuổi).
Theo Nguyễn Đăng Vang & cs (1999) tuổi thành thục của gà Đông Tảo nuôi công nghiệp là 157 ngày, nuôi chăn thả 200-225 ngày, gà Mía ở 137 ngày đẻ quả trứng đầu tiên, tỷ lệ đẻ đạt 5% lúc 145 ngày. Lê Công Cường (2007) cho biết tuổi đẻ quả trứng đầu tiên của gà Hồ là 245 ngày, tỷ lệ đẻ 5% ở 259 ngày. Nguyễn Chí Thành (2008) cho biết tuổi thành thục của gà Hồ là 288 ngày, gà Đông Tảo 194 ngày, gà Chọi 216 ngày, gà Ri 146 ngày, gà Ác 144 ngày, gà H’mông 138 ngày. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Hòa (2001) trên gà Đông Tảo cho thấy tuổi thành thục của gà Đông Tảo là 165 ngày. Khối lượng gà trống ở tuổi trưởng thành đạt 2616,26 g; gà mái đạt 2035,30 g. Như vậy kết quả nghiên cứu về tuổi thành thục của gà thí nghiệm của chúng tôi là thấp hơn gà Đông Tảo, gà Hồ, tương tự như gà Mía, gà Ri và cao hơn gà Ác và gà H’mông.
Tỷ lệ đẻ, năng suất trứng và trứng giống của gà thí nghiệm
Kết quả ở bảng 4. cho thấy tỷ lệ đẻ và năng suất trứng của gà thí nghiệm tăng chậm qua các tuần tuổi và biến động không tuân theo quy luật nhất định nào. Kết quả nghiên cứu này hoàn toàn phù hợp với các kết quả nghiên cứu về các giống gà nội do bản năng tự nhiên và tập tính ấp của chúng. Trong thời gian theo dõi, tỷ lệ đẻ của đàn đạt trung bình 33,58%, năng suất trứng trung bình 2,33 quả/mái/tuần.
Ở thời điểm 25 tuần tuổi tỷ lệ đẻ 35,76%, năng suất trứng trung bình 2,28 quả/mái/tuần. Ở thời điểm 28 tuần tuổi tỷ lệ đẻ đạt 50,36% và năng suất trứng đạt 3,52 quả/mái/tuần. Ở thời điểm 32 tuần tuổi tỷ lệ đẻ đạt 51,02% và năng suất trứng đạt 3,57 quả/mái/tuần. Ở thời điểm 38 tuần tuổi tỷ lệ đẻ đạt 35,71% và năng suất trứng đạt 2,50 quả/mái/tuần. Theo Nguyễn Văn Thiện và Hoàng Phanh (1999) gà Mía đẻ trứng bói lúc 22 tuần tuổi và đẻ đạt tỷ lệ 5% lúc 24 tuần tuổi, đạt đỉnh cao lúc 31 tuần tuổi. Tỷ lệ trứng giống tăng dần theo tỷ lệ đẻ, đến tuần tuổi 29, đạt trên 90%, đạt trên 97% ở các tuần 30 đến 34 và ổn định xung quang 94% ở các tuần sau đó; kết quả này phù hợp với quy luật chung về tỷ lệ trứng giống của gà bố mẹ.
Một số chỉ tiêu về ấp nở của gà thí nghiệm
Qua kết quả của bảng 5. cho thấy tỷ lệ trứng có phôi trung bình các đợt ấp là 93,21%, (dao động trong khoảng 75,64%-96,48%). Tỷ lệ nở so với số trứng đem ấp trung bình là 87,17% (dao động trong khoảng 56,8%-93,5%). Khối lượng gà mới nở của các đợt ấp tương đối đồng đều, trung bình đạt 33,30 g. Theo Lange (1995) khối lượng gia cầm mới nở thường bằng 62-78% khối lượng trứng khi ấp thì khối lượng gà con nở ra của chúng tôi nằm trong phạm vi cho phép.
Nguyễn Đăng Vang & cs (1999) cho biết gà Đông Tảo tỷ lệ trứng có phôi đạt 89,54% và tỷ lệ nở loại gà con loại 1/ trứng ấp đạt 70,08%. Theo Nguyễn Văn Thạch (1996), gà Ri nuôi bán thâm canh, tỷ lệ phôi đạt 93,42% và nở/ có phôi đạt 90,51%. Nguyễn Thị Hòa (2001) cho biết, tỷ lệ trứng có phôi của gà Đông Tảo đạt 86,26%, gà Ri là 93,11%, gà Tè là 90,04%. So với kết quả đó trên gà Mía, tỷ lệ nở/ trứng ấp chỉ đạt 66,7-66,9% và trên gà Đông tảo, trứng có phôi đạt 85,96% và tỷ lệ nở/ trứng ấp đạt 68,59% (Nguyễn Văn Thiện và Hoàng Phanh, 1999) thì kết quả đạt được trên gà Lạc Thủy cao hơn.
Tỷ lệ chết và loại thải của đàn gà thí nghiệm giai đoạn sinh sản
Bảng 5. Một số chỉ tiêu ấp nở của gà Lạc Thủy (n = 18)
Tỷ lệ chết và loại thải trung bình giai đoạn sinh sản 20-40 tuần tuổi của gà mái thí nghiệm đạt là: 6,67%. Tỷ lệ loại thải này rất thấp vì trong giai đoạn hậu bị chúng tôi đã tiến hành chọn lọc rất kỹ những gà đạt tiêu chuẩn giống mới đưa vào sinh sản. Với gà trống, sức sống rất tốt, trong suốt 20 tuần tuổi từ tuần 20-40, không chết và không loại thải bất kì gà trống nào ở cả 3 đàn theo dõi.
Hiệu quả sử dụng thức ăn
Qua bảng 6. cho thấy, tiêu tốn thức ăn để sản xuất ra 10 trứng, 10 trứng giống và một gà con loại I của gà Lạc Thuỷ lần lượt là 3,44 kg/ 10 trứng, 3,97 kg/ 10 trứng giống và 0,47 kg/ 1 gà con loại I.
Bảng 6. Tiêu tốn thức ăn cho sản xuất trứng và gà con của gà địa phương Lạc Thủy (tính riêng giai đoạn sinh sản) (n=3; đơn vị: kg)
Qua đây chúng tôi cũng thấy rằng, tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng, tiêu tốn thức ăn/ 10 quả trứng giống và tiêu tốn thức ăn/ 1 con gà loại 1 của gà thí nghiệm đều tuân theo quy luật: cao trong giai đoạn đầu do tỷ lệ đẻ thấp, tỷ lệ trứng giống và trứng có phôi kém; đến khi tỷ lệ đẻ và tỷ lệ trứng giống tăng lên thì tiêu tốn thức ăn cũng đồng thời giảm đi.
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Kết luận
-
Đặc điểm ngoại hình: Gà Lạc Thủy có ngoại hình khá đồng nhất với con mái có màu lông nâu lá chuối khô, con trống có màu đỏ tía. Gà Lạc Thủy chủ yếu có kiểu mào là mào cờ, màu mắt nâu vàng, màu chân vàng nhạt.
-
Khả năng sinh sản của gà Lạc Thủy: tuổi đẻ đầu của gà Lạc Thủy là khá sớm từ 136-140 ngày và đẻ đỉnh cao ở tuần 31-32; tỷ lệ đẻ bình quân là 33,58%, năng suất trứng/mái/40 tuần tuổi đạt 49,42 quả, tỷ lệ trứng giống là 85,97%.
-
Các chỉ tiêu về ấp nở của gà Lạc Thủy: tỷ lệ trứng có phôi/ trứng ấp đạt 93,21%, tỷ lệ nở/ trứng ấp đạt 87,11%, tỷ lệ gà con loại I/ tổng số gà con nở ra đạt 94,37%.
-
Tiêu tốn thức ăn của gà Lạc Thủy: tiêu tốn thức ăn cho 10 trứng, 10 trứng giống và 1 gà con 1 ngày tuổi (tính riêng giai đoạn sinh sản) lần lượt là 3,44 kg; 3,97 kg và 0,47 kg.
Đề nghị:
Nghiên cứu xác định bản chất di truyền của gà địa phương Lạc Thủy, tiến hành bảo tồn và tiếp tục nghiên cứu, chọn lọc và nhân giống để nâng cao năng suất của nhóm gà này.